- Gẫy xương gót nguyên nhân chính là ngã cao, hai gót chân tiếp đất, trọng lượng của cơ thể dồn xuống làm vỡ dọc và ngang xương gót. Cơ chế này thường kèm gẫy cột sống. - Điều trị phẫu thuật cũng như bảo tồn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa được tốt. - Di chứng: can lệch xương gót, trật khớp sên gót, đi lại đau đớn kéo dài, gót chân bẹt ra ảnh hưởng thẩm mỹ nữa. - Chẩn đoán lâm sàng: + Nhìn từ phía sau khi người bệnh đứng: gót chân bè rộng, vẹo ngoài, gót chân phẳng hơn. + Bầm tím máu tụ ở mặt trong bàn chân. + Khi đứng tỳ đè đau, phần nhiều là không đứng được. - Cận lâm sàng: Chụp X quang: thẳng và nghiêng. Đặc biệt phim thẳng thấy rõ toàn bộ xương gót. Phim thẳng xương gót, bóng phải để 1 góc 40 độ so với mặt phẳng đứng dọc. Bàn chân gấp mu chân. Phim nghiêng xem được xương gót và khớp sên gót: đo góc Boehler tạo nên bởi 2 đường: đường phía trước đi qua đỉnh cao nhất của xương gót với mỏm cao nhất của chỏm xương. Đường phía sau đi qua đỉnh cao nhất của xương gót tới điểm cao nhất của lồi củ sau xương gót. Bình thường góc này từ 20-40 độ. Nếu góc nhỏ đi, hoặc âm thể hiện sự lún của xương gót. Chụp cắt lớp dựng hình nếu có điều kiện.
I. ĐẠI CƯƠNG
- Gẫy xương gót nguyên nhân chính là ngã cao, hai gót chân tiếp đất,
trọng lượng của cơ thể dồn xuống làm vỡ dọc và ngang xương gót. Cơ chế này
thường kèm gẫy cột sống.
- Điều trị
phẫu thuật cũng như bảo tồn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa
được tốt.
- Di chứng: can lệch xương gót, trật khớp sên gót, đi lại đau đớn kéo dài,
gót chân bẹt ra ảnh hưởng thẩm mỹ nữa.
- Chẩn đoán lâm sàng:
+ Nhìn từ phía sau khi người bệnh đứng: gót chân bè rộng, vẹo ngoài, gót
chân phẳng hơn.
+ Bầm tím máu tụ ở mặt trong bàn chân.
+ Khi đứng tỳ đè đau, phần nhiều là không đứng được.
- Cận lâm sàng:
Chụp X quang: thẳng và nghiêng. Đặc biệt phim thẳng thấy rõ toàn bộ xương
gót. Phim thẳng xương gót, bóng phải để 1 góc 40 độ so với mặt phẳng đứng
dọc. Bàn chân gấp mu chân. Phim nghiêng xem được xương gót và khớp sên
gót: đo góc Boehler tạo nên bởi 2 đường: đường phía trước đi qua đỉnh cao nhất
của xương gót với mỏm cao nhất của chỏm xương. Đường phía sau đi qua đỉnh
cao nhất của xương gót tới điểm cao nhất của lồi củ sau xương gót. Bình thường
góc này từ 20-40 độ. Nếu góc nhỏ đi, hoặc âm thể hiện sự lún của xương gót.
Chụp cắt lớp dựng hình nếu có điều kiện.
II. CHỈ ĐỊNH
ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN GẪY XƯƠNG GÓT
1. Vỡ dọc lồi củ xương gót: loại vỡ này nếu không vào mặt khớp tiên lượng rất
tốt. Lâm sàng sưng nề nhiều, không cần nắn, chỉ cần băng ép và gác cao chân 1
tuần, quá trình phù nề giảm đi.
Tỳ chân ít một, không hoàn toàn. Đi bằng nạng trong 4 tuần. Độn miếng đệm
êm ở gót chân trong giầy.
2. Vỡ ngang xương gót: chia 2 mức độ, mảnh gẫy còn dính với phần thân
xương: điều trị bảo tồn.
3. Vỡ mỏm chân đế gót di lệch ít (không quá 2mm).
4. Gẫy thân xương gót không kèm theo trật khớp sên gót.
5. Gẫy thân xương gót kèm theo tổn thương mặt khớp sên gót, nhưng xương gẫy
ít lệch. 146
III.CHỐNG CHỈ ĐỊNH
1. Gẫy xương hở, hoặc gẫy xương gót có kèm vết thương khớp cổ chân, gẫy hở
các xương khác vùng cổ bàn chân.
2. Có tổn thương mạch máu, thần kinh, hội chứng khoang, loét sẵn do tiểu
đường, gout...
IV. CHUẨN BỊ
1. Người thực hiện
Như với bó các bột ở trên (chuyên khoa xương: 03, nếu có gây mê: thêm
bác sỹ gây mê và phụ mê).
2. Phương tiện
- 1 bàn nắn thông thường.
- Thuốc tê hoặc thuốc mê: số lượng tùy thuộc người bệnh là trẻ em hay
người lớn, trọng lượng người bệnh. Kèm theo là dụng cụ gây tê, gây mê, hồi sức
(bơm tiêm, cồn 70
o
, thuốc chống sốc, mặt nạ bóp bóng, đèn nội khí quản...).
- Bột thạch cao: 6-8 cuộn, cỡ 15 cm.
- Giấy vệ sinh, bông cuộn hoặc bít tất vải xốp mềm để lót (jersey).
- Dây rạch dọc (dùng cho bột
cấp cứu, khi tổn thương 7 ngày trở lại).
- Dao hoặc cưa rung để rạch dọc bột trong trường hợp bó bột cấp cứu (tổn
thương trong 7 ngày đầu).
- Nước để ngâm bột: đủ về số lượng để ngâm chìm hẳn 3-4 cuộn bột cùng
1 lúc. Lưu ý, mùa lạnh phải dùng nước ấm, vì trong quá trình bột khô cứng sẽ
tiêu hao một nhiệt lượng đáng kể làm nóng bột, có thể gây hạ thân nhiệt người
bệnh, gây cảm lạnh. Nước sử dụng ngâm bột phải được thay thường xuyên để
đảm bảo vệ sinh và tránh hiện tượng nước có quá nhiều cặn bột ảnh hưởng đến
chất lượng bột.
- 1 cuộn băng vải hoặc băng thun, để băng giữ ngoài bột, khi việc bó bột
và rạch dọc bột đã hoàn thành.
- 1 độn gỗ kê dưới khoeo chân khi bó bột.
3. Người bệnh
- Được thăm khám toàn diện, tránh bỏ sót tổn thương, nhất là những tổn
thương lớn có thể gây tử vong trong quá trình nắn bó bột (
chấn thương sọ não,
chấn thương ngực, vỡ tạng đặc,vỡ tạng rỗng...).
- Được giải thích kỹ mục đích của thủ thuật, quá trình tiến hành làm thủ
thuật, để người bệnh khỏi bị bất ngờ, động viên để họ yên tâm, hợp tác tốt với
thầy thuốc. Với bệnh nhi, cần giải thích cho bố mẹ hoặc người thân.
- Được vệ sinh sạch sẽ, cởi hoặc cắt bỏ quần bên chân gẫy.
- Với người bệnh gây mê, cần nhịn ăn uống ít nhất 5-6 giờ, tránh nôn hoặc
hiện tượng trào ngược (nước hoặc thức ăn từ dạ dầy tràn sang đường thở gây tắc
thở).
4. Hồ sơ 147
- Cần ghi rõ ngày giờ bị tai nạn, ngày giờ bó bột, tình trạng thăm khám
toàn thân, hướng xử trí, những điều dặn dò và hẹn khám lại.
- Với người bệnh gây mê, cần có tờ cam kết chấp nhận thủ thuật.
V. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
NẮN BÓ BỘT
1. Người bệnh
Tư thế: nằm sấp, gối gấp 90
o
cẳng chân dựng ngược lên trên, gan chân
thẳng góc lên trên.
2. Các bước tiến hành
2.1. Nếu gẫy không lệch: chỉ bó bột Cẳng-bàn chân tư thế cơ năng (cổ chân
90
o
), rạch dọc bột. Thời gian bất động chỉ cần 4-5 tuần.
2.2. Nếu gẫy di lệch
- Nắn: người nắn dùng 2 ngón tay cái đẩy vào gốc gân Achille, nơi gân
Achille bám vào lồi củ xương gót, đẩy cho xương gót theo hướng ngược với lực
co của gân Achille, đồng thời trợ thủ kéo cho bàn chân duỗi ra tối đa, đồng thời
1 tay đẩy vào đỉnh vòm gan chân, thực tế là làm gấp thêm gan chân tối đa.
- Bất động: bó bột Cẳng-bàn chân:
+ Sau khi nắn, đỡ chân tư thế cổ chân duỗi tối đa, gan chân gấp, lật người
bệnh nằm ngửa, quấn bông hoặc giấy vệ sinh đủ dày, đặt dây rạch dọc.
+ Đặt 1 nẹp bột sau cẳng bàn chân.
+ Quấn bột vòng tròn kiểu xoáy trôn ốc, từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên
trên, đủ dày thì thôi, tư thế duỗi cổ chân, xoa vuốt cho bột liên kết tốt và nhẵn,
rạch dọc bột, lau chùi sạch sẽ bột dính ở da để dễ theo dõi sau bó bột.
Thời gian bất động: 6-8 tuần. Trong thời gian mang bột ấy:
- Sau 7-10 ngày chụp kiểm tra, thay bột tròn, độn, vẫn tư thế duỗi cổ chân.
- Sau 3-4 tuần chụp lại, thay bột tư thé cổ chân 90
o
, để người bệnh tập đi.
Khi người bệnh không đi, cho gác cao chân (gẫy xương gót thường sưng nề
nhiều).
- Trường hợp nắn khó, có thể nắn bằng cách xuyên 1 đinh Steinmann, khi
đầu đinh sắp tới ổ gẫy thì cầm đinh để bẩy xương mà nắn, kiểm tra bằng màn
tăng sáng (không có màn tăng sáng thì ước lượng bằng kinh nghiệm), rồi xuyên
tiếp lên qua xương sên, xương gót ở phía trước trên. Bó bột Cẳng-bàn chân như
trên, lượn vòng qua đầu đinh, để thò đầu đinh ra ngoài, rút đinh sau khi tháo bột
(cũng có thể rút đinh sớm hơn, khi đã hình thành can non).
Xương gẫy di lệch nhiều, hoặc gẫy xương kèm trật khớp sên gót, nắn không kết
quả thì chuyển mổ đặt lại xương, đặt lại khớp, phục hồi vòm gan chân, găm vài
kim Kirschner cố định, có thể vẫn phải tăng cường bột rạch dọc sau mổ. 148
VI. THEO DÕI
Đa số theo dõi ngoại trú, trường hợp nặng hoặc sưng nề nhiều thì cho vào
viện theo dõi điều trị nội trú.
VII. TAI BIẾN
VÀ XỬ TRÍ
- Tai biến chủ yếu là sưng nề, rối loạn dinh dưỡng kéo dài: kê cao chân,
thuốc chống sưng nề, tập vận động sớm.
- Nắn không tốt sẽ dẫn đến can lệch, chồi xương, đi lại đau, gót chân bè ra
ảnh hưởng thẩm mỹ, phải mổ đục bạt xương chồi.
149